| | CHƯƠNG II CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
dungkieuvan Admin
Tổng số bài gửi : 104 Đến từ : hồ chí minh
| Tiêu đề: CHƯƠNG II CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ 9th June 2010, 7:19 pm | |
| Hoạt động quản trị xuất hiện trong đời sống xã hội rất lâu nhưng lý thuyết quản trị (Quản trị học) mãi cho đến đầu thế kỷ XX mới hình thành và phát triển. Người sáng lập lý thuyết quản trị đầu tiên là W. TAYLOR (người Mỹ) với tác phẩm “Những nguyên tắc quản trị” vào năm 1911. Đến nay, đã có không ít lý thuyết quản trị ra đời với nhiều học giả thuộc các trường phái quản trị khác nhau.
Sự phát triển các lý thuyết quản trị gần 100 năm qua đã thực sự định hướng cho các nhà quản trị thực hành 3 nhiệm vụ trọng tâm của mình:
- Quản trị công việc và các tổ chức.
- Quản trị con người trong tổ chức.
- Quản trị các họat động trong tổ chức.
I- CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ THUỘC TRƯỜNG PHÁI CỔ ĐIỂN.
1- Lý thuyết quản trị khoa học (Scientific management).
a- Sơ lược về tác giả.
Frederick Winslow Taylor (1856 – 1915). Vào những năm cuối thế kỷ XIX, lúc đó W. Taylor là anh công nhân bình thường phấn đấu thành một nhà quản trị sản xuất nhà máy Midvale Steel Works, và theo học lấy bằng kỹ sư tại chức ở Viện kỹ thuật Stevens, Hoa kỳ.
Với một con người có ý chí và khả năng làm việc tốt, W. Taylor đã quan sát và phát hiện ra rằng, hầu hết các nhà quản trị trước đó làm theo kinh nghiệm, cứ làm sai thì sửa. Hơn nữa nhiều công tác quản trị thường phó mặc cho công nhân như phương pháp làm việc, tiêu chuẩn công việc, khuyến khích công nhân … Từ đó, ông cho ra đời hai tác phẩm: Quản trị phân xưởng (Shop Management) xuất bản năm 1906 và đặc biệt là Các nguyên tắc quản trị khoa học (Principles of Scientific Management) xuất bản năm 1911.
Quản trị khoa học là thuật ngữ dùng để chỉ các ý kiến của một nhóm tác giả ở Hoa Kỳ vào đầu thập niên của thế kỷ XX, được Louis Brandeis sử dụng lần đầu tiên trong một báo cáo trước Ủy Ban Thương Mại Hoa Kỳ vào năm 1910. Sau đó được W. Taylor sử dụng để đặt tên cho tác phẩm của mình. Vì vậy, thuật ngữ này đã trở thành tên của một lý thuyết và gắn liền với tên tuổi của W. Taylor cho đến ngày nay.
b- Những tư tưởng cơ bản của Lý thuyết quản trị khoa học.
W. Taylor không phải là tác giả duy nhất lý thuyết này. Nhưng, ông thực sự xứng đáng với tên gọi là cha đẻ của Quản trị học mà nhiều học giả phương Tây suy tôn. Những tư tưởng cơ bản trong Lý thuyết quản trị khoa học của W. TAYLOR:
- Các nhà quản trị từ cấp cơ sở trở lên nên dành nhiều thời gian và công sức để lập kế hoạch hoạt động của tổ chức cho công nhân làm việc và kiểm tra hoạt động thay vì cùng tham gia công việc cụ thể của người thừa hành.
- Các nhà quản trị phải đầu tư để tìm ra những phương cách hoạt động khoa học để hướng dẫn công nhân, thay vì để công nhân tự ý chọn phương pháp làm việc riêng của họ.
- Các nhà quản trị nên sử dụng các biện pháp kinh tế để động viên công nhân hăng hái làm việc. Trong đó ông đề ra phương pháp trả lương theo sản phẩm.
- Phân chia trách nhiệm, quyền hạn và quyền lợi một cách hợp lý giữa những nhà quản trị và người thừa hành. Tránh trút hết trách nhiệm cho người công nhân.
Những nét phác họa đó chưa đủ để xem là một lý thuyết hoàn thiện. Song, nhờ có những “viên gạch” đầu tiên mà các nhà quản trị sau này đã vun đắp thành những “lâu đài lý thuyết” tráng lệ.
c- Tóm tắt Lý thuyết quản trị khoa học.
Lý thuyết quản trị khoa học là nỗ lực đầu tiên của con người trình bày một cách có hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc và những phương pháp quản trị công việc. Nó đánh dấu một bước ngoặt mới, chấm dứt một quá trình rất dài bao gồm nhiều thế kỷ mà con người chỉ biết quản trị theo kinh nghiệm.
Tuy nhiên, một số nhà phê bình cho rằng, nhìn chung tư tưởng của W. Taylor và các tác giả thuộc Lý thuyết quản trị khoa học là thiếu nhân bản, xem con người như một đinh ốc trong cỗ máy. Còn H. Koontz thì gọi lý thuyết quản trị của W. Taylor là “Lý thuyết cây gậy và củ cà rốt”. Nhưng, cũng có ý kiến bênh vực cho ông ta cho rằng, tư tưởng của W. Taylor là sản phẩm của thời đại ông sống.
2- Lý thuyết quản trị hành chánh (Administration Management).
a- Sơ lược về tác giả.
Henri Fayol (1841 – 1925) là một nhà công nghiệp Pháp. Năm 1916, ông xuất bản tác phẩm Quản trị công nghiệp và quản trị chung (Administration inductile ét general) trình bày nhiều quan niệm mới về quản trị. Trong đó, ông trình bày lý thuyết quản trị của mình một cách có hệ thống, tổng hợp và ở trình độ cao hơn so với các lý thuyết khác cùng thời.
Lý thuyết này ra đời căn cứ trên giả thuyết, mặc dù mỗi loại hình tổ chức có những đặc điểm riêng (doanh nghiệp, nhà nước, các tổ chức đoàn thể, tôn giáo…) nhưng chúng đều có chung một tiến trình quản trị mà qua đó nhà quản trị có thể quản trị tốt bất cứ một tổ chức nào.
b- Nội dung cơ bản của Lý thuyết quản trị hành chính.
b1- Phân chia công việc của doanh nghiệp ra thành 6 loại.
- Sản xuất (kỹ thuật sản xuất).
- Thương mại (mua bán, trao đổi).
- Tài chính (tạo và sử dụng vốn có hiệu quả).
- An ninh (bảo vệ tài sản và nhân viên).
- Kế toán.
- Quản trị.
b2- Thiết lập một hệ thống các chức năng quản trị:
- Hoạch định.
- Tổ chức.
- Chỉ huy.
- Phối hợp.
- Kiểm tra.
b3- Đề ra 14 nguyên tắc quản trị:
- Phân chia công việc.
- Tương quan giữa thẩm quyền và trách nhiệm.
- Kỷ luật.
- Thống nhất chỉ huy.
- Thống nhất điều khiển.
- Cá nhân lệ thuộc lợi ích chung.
- Thù lao tương xứng.
- Tập trung và phân tán.
- Cấp bậc (Nguyên tắc giai đẳng).
- Trật tự.
- Công bằng.
- Ổn định nhiệm vụ.
- Sáng kiến.
- Đoàn kết (tinh thần tập thể).
d- Tóm tắt Lý thuyết quản trị hành chánh.
Đồng quan điểm với Lý thuyết quản trị khoa học, Lý thuyết quản trị hành chánh chủ trương rằng, để đem lại hiệu quả phải bằng con đường tăng năng suất lao động. Nhưng, theo H. Fayol muốn tăng năng suất lao động phải sắp xếp tổ chức một cách hợp lý thay vì tìm cách tác động vào người công nhân (tức W. Taylor và những người trước đó xuất phát vấn đề từ phía người công nhân, còn H. Fayol thì xuất phát từ phía người quản trị).
Mặc dù lúc bấy giờ có nhiều ý kiến nghi ngờ về giá trị thực tế của Lý thuyết quản trị hành chánh của H. Fayol, nhưng ngày nay không ai có thể bác bỏ được sự thật về sự đóng góp to lớn của nó trong việc quản trị một tổ chức có hiệu quả. Nhận xét về H. Fayol, GS. Koontz và O’Donnell của Đại học California cho rằng, chính H. Fayol bằng những tư tưởng rất phù hợp với hệ thống quản trị kinh doanh hiện đại, thực sự xứng đáng được xem là cha đẻ của khoa học quản trị các tổ chức ngày nay, chứ không phải là W. Taylor.
3- Tóm tắt các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Cổ điển.
a- Tóm tắt.
Tiền đề căn bản của các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Cổ điển là “con người thuần lý kinh tế” (Rational economic man). Vì vậy:
- Để nâng cao hiệu quả quản trị, họ cho rằng phải chuyên môn hóa nhiệm vụ trong một hệ thống cấp bậc được xác định rõ ràng.
- Tổ chức được xem là một hệ thống cơ học, được hoạch định và kiểm soát và điều hành bằng quyền hành chính đáng của các nhà quản trị.
- Bên cạnh đó cần khuyến khích bằng lợi ích vật chất.
b- Các đóng góp.
Về mặt lý thuyết. Các lý thuyết quản trị Cổ điển đã đặt nền tảng cho các lý thuyết quản trị sau này. Trên cơ sở những tư tưởng ban đầu của Trường phái Cổ điển, trường phái Tâm lý xã hội đã bổ sung khía cạnh nhân bản. Lý thuyết định lượng về quản trị làm phong phú thêm về khoa học định lượng trong việc đề ra các quyết định quản trị…
Về giá trị thực tiễn. Không thể phủ nhận rằng, nhờ những đóng góp các lý thuyết quản trị Cổ điển, việc quản trị các cơ sở kinh doanh, các cơ sở sản xuất, và ngay cả các cơ quan chính quyền ở các nước phương Tây và nhiều nước khác trên thế giới đã được nâng cao một cách rõ rệt trong nhiều thập niên của thế kỷ XX. Nhờ sự ứng dụng các nguyên tắc và kỹ thuật quản trị của các lý thuyết quản trị Cổ điển, tình trạng quản trị luộm thuộm, tùy tiện tại các cơ sở sản xuất đã được khắc phục, việc quản trị đã được đưa vào nề nếp. Từ đó, tạo điều kiện hoàn thiện các lý thuyết quản trị và nâng cao hiệu quả quản trị.
Sau khi Cách Mạng Tháng Mười Nga thành công năm 1917, Lê Nin đã đề cao sự cống hiến to lớn của các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Cổ điển. Bên cạnh đó, Lê Nin cũng đã nêu lên những luận điểm mới của mình thuộc các vấn đề về lĩnh vực quản lý, mà sau này các nhà lý luận của Liên Xô trước đây đã đúc kết thành những nguyên tắc quản lý Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN), được các nước XHCN trước đây áp dụng khá phổ biến cả trong lĩnh vực quản lý vĩ mô cũng như vi mô. Các nguyên tắc đó là:
- Nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế.
- Nguyên tắc tập trung – dân chủ.
- Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo địa
Phương (vùng lãnh thổ).
- Nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích trong xã hội.
- Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả.
Trong mỗi thời kỳ phát triển xã hội khác nhau, tính phổ biến của các nguyên tắc trên cũng không giống nhau, nhưng giá trị khoa học của chúng không hề thay đổi. Hệ thống các nguyên tắc quản trị đó đã góp phần làm phong phú thêm cho các lý thuyết và thực hành quản trị, đặc biệt là trong lĩnh vực quản trị hành chính cấp vĩ mô.
c- Những hạn chế.
Hạn chế lớn nhất của các lý thuyết quản trị Cổ Điển, xem con người la “Con người thuần lý kinh tế”, bỏ qua các khía cạnh tâm lý - xã hội của con người mà sau này các nhà quản trị theo khuynh hướng tâm lý- xã hội đã cực lực phê phán.
Thứ hai la, các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Cổ điển đã xem tổ chức là một hệ thống khép kín, điều này là không thực tế. Cách nhìn nhận này không thấy được ảnh hưởng của các yếu tố môi trường cũng như các mối quan hệ khác trong tổ chức.
Thứ ba là, các nguyên tắc quản trị Cổ điển mà tiêu biểu nhất là 14 nguyên tắc quản trị của H. Fayol có người nghi ngờ về giá trị thực tiễn của nó. Kastvacosenweig cho rằng, nhiều nguyên tắc do các lý thuyết Cổ điển nêu lên chỉ là những nhận định có tính chất lương tri thông thường và quá tổng quát, không thể áp dụng trong thực tế. Một số nguyên tắc lại mâu thuẫn với nhau, chẳng hạn nguyên tắc chuyên môn hóa thường mâu thuẫn với nguyên tắc thống nhất chỉ huy; hay quyền hành theo cấp bậc trong tổ chức lại mâu thuẫn với quyền hành theo kiến thức chuyên môn; một số nguyên tắc giống như lời kêu gọi, tính thuyết phục không cao …
Thứ tư là, xét về mặt khoa học, nhiều người nói rằng, hầu hết các tác giả của các lý thuyết quản trị Cổ điển là các nhà thực hành quản trị, các lý thuyết của họ đều xuất phát từ kinh nghiệm và thiếu cơ sở vững chắc của sự nghiên cứu khoa học.
Từ những nhận định phê phán trên, các nhà quản trị thuộc trường phái Tâm lý- xã hội hình thành nên các lý thuyết cho mình. | |
| | | dungkieuvan Admin
Tổng số bài gửi : 104 Đến từ : hồ chí minh
| Tiêu đề: Re: CHƯƠNG II CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ 9th June 2010, 7:20 pm | |
| II- CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ THUỘC TRƯỜNG PHÁI TÂM LÝ-XÃ HỘI.
Ngay những thập niên đầu của thế kỷ XX, trong khi các lý thuyết quản trị Cổ điển đang thịnh hành thì những tư tưởng tâm lý-xã hộicũng đã xuất hiện, chẳng hạn như trường hợp của Liliang Gilbreth, nhưng những tư tưởng này chưa gây được sự chú ý của các nhà khoa học, và nhanh chóng bị lãng quên. Mãi cho đến khi các giáo sư của trường kinh doanh Harvard (Mỹ) tham dự vào cuộc vận động nghiên cứu và nhất là cuộc nghiên cứu ở nhà máy Hawthornes năm 1924, được xem là dấu mốc khởi sự chính thức của các lý thuyết thuộc trường phái Tâm lý - xã hội, lúc này vấn đề tâm lý - xã hội trong quản trị mới được chính thức thừa nhận ở Mỹ, và từ đó lan truyền ra các nước phương Tây.
Nếu trường phái Cổ điển quan tâm đến yếu tố vật chất của con người, nặng về tổ chức, kiểm tra kiểm soát và khuyến khích bằng lợi ích vật chất thì trường phái Tâm lý- xã hội hay còn gọi là trường phái Tác phong họ quan tâm đến yếu tố tâm lý, tình cảm, quan hệ xã hội của con người trong công việc. Các lý thuyết của trường phái này cho rằng, hiệu quả cũng do năng suất lao động quyết định, nhưng năng suất lao động không phải do các yếu tố vật chất quyết định, mà do sự thỏa mãn các nhu cầu tâm lý-xã hộicủa con người. Các tác giả được xem là có đóng góp đáng kể cho trường phái Tác phong đó là:
1- Hugo Munsterberg.
Nhiều nhà khoa học xem Hugo Munsterberg là người đã lập ra một ngành học mới là ngành tâm lý học công nghiệp. Trong tác phẩm nhan đề “Tâm lý học và hiệu quả trong công nghiệp”xuất bản năm 1913, Ông đã đặt vấn đề phải nghiên cứu một cách khoa học tác phong của con người để tìm ra những mẫu mực chung và giải thích những sự khác biệt.
Cũng giống như các tác giả của Lý thuyết quản trị khoa học, năng suất lao động là con đường đi đến hiệu quả, nhưng năng suất lao động không do các yếu tố vật chất mà do các yếu tố phi vật chất quyết định, Munsterberg cho rằng năng suất lao động sẽ cao hơn nếu công việc giao phó cho họ được nghiên cứu, phân tích chu đáo và hợp kỹ năng cũng như hợp với đặc điểm tâm lý của họ.
Từ lập luận đó, Munsterberg đã đề nghị các nhà quản trị dùng các bài trắc nghiệm tâm lyđể tuyển chọn nhân viên, và phải tìm hiểu tác phong con người trước khi đi tìm các kỹ thuật thích hợp để động viên họ làm việc. Những ý kiến ấy, lúc đầu không được các nhà khoa học và các nhà thực hành quản trị chú ý, nhưng càng về sau, khi mà đời sống vật chất con người ngày càng được cải thiện thì ý kiến đó lại càng có nhiều ý nghĩa to lớn cho quản trị.
2- Mary Parker Follet.
Nếu Hugo Munsterberg được xem là người có tư tưởng tâm lý (tâm lý trong quản lý) đầu tiên thì Mary Parker Follet là người có tư tưởng xã hội (xã hội trong quản lý) sớm nhất. Bà cho rằng, ngoài khía cạnh kinh tế và kỹ thuật, các doanh nghiệp còn được xem là một hệ thống của những quan hệ xã hội, và hoạt động quản trị là một tiến trình mang tính chất quan hệ xã hội.
Những ý kiến của Bà nhấn mạnh: ve sự chấp nhận quyền hành; sự quan trọng của phối hợp; sự hội nhập của các thành viên trong tổ chức là những giả thuyết khoa học hướng dẫn cho những người sau này nghiên cứu. Những ý tưởng đó được người Nhật tin tưởng áp dụng, đem lại những thành quả nhất định.
3- Elton Mayo và cuộc nghiên cứu nhà máy Hawthornes.
Những ý kiến của Hugo Munsterberg và Mary Parker Follet trước đây cũng chỉ làm cho các nhà khoa học để ý hơn trước về khía cạnh tâm lý-xã hội trong quản trị. Và, chỉ khi có cuộc nghiên cứu ở nhà máy Hawthornes thuộc Công ty điện lực miền Tây (Western Electric Company) ở gần Chicago (Mỹ) năm 1924 thành công thì các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Tâm lý xã hội mới thực sự được các nhà khoa học thừa nhận, đánh dấu một sự kiện lớn trong lịch sử phát triển của lý thuyết quản trị.
Chủ đích cuộc nghiên cứu nhằm tìm xem các yếu tố vật chất (tiếng ồn, ánh sáng, độ nóng, …) có ảnh hưởng đến năng suất lao động không? Thế là hai nhóm nữ công nhân đã được tổ chức đưa vào cuộc nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu đã nâng dần tình trạng tốt đẹp của các yếu tố vật chất và đo lường năng suất. Kết quả cho thấy khi các điều kiện vật chất được cải thiện, năng suất lao động đã nâng cao hơn. Tuy nhiên, khi làm cuộc thí nghiệm ngược lại, các nhà nghiên cứu thấy rằng năng suất của các nữ công nhân này vẫn tiếp tục gia tăng dù các điều kiện vật chất đã bị hạ xuống như lúc ban đầu.
Elton Mayo (1880 – 1949) một giáo sư về tâm lý học của trường kinh doanh Harvard đã được tham gia vào cuộc nghiên cứu để giải thích hiện tượng được xem là nghịch lý này. Liên tục trong 5 năm, từ 1927 đến 1932 Mayo đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu khác nhau và đã ghi nhận được nhiều khám phá quan trọng. Trong cuộc nghiên cứu đầu tiên, Mayo thấy ánh sáng nơi làm việc không gây ảnh hưởng đến năng suất của công nhân. Cuộc nghiên cứu thứ hai, Mayo lại thấy các điều kiện làm việc không có hoặc có ít quan hệ với năng suất. Cuộc nghiên cứu thứ 3, Mayo thấy tiền lương và tiền thưởng không tạo ra tác động nào đến năng suất lao động của tập thể. Trái lại những yếu tố có quan hệ đến năng suất lao động lại là những yếu tố phi vật chất.
Từ kết quả nghiên cứu đó, Mayo kết luận rằng giữa tâm lý và tác phong có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau; và hơn nữa khi con người làm việc chung trong tập thể, thì ảnh hưởng của tập thể lại đóng vai trò to lớn trong việc tạo ra tác phong của cá nhân. Với tư cách con người trong tập thể, công nhân có xu hướng tuân theo các qui định của tập thể, dù chỉ là những qui định không chính thức, hơn là những kích thích từ bên ngoài. Những khám phá này cũng đưa đến nhận thức mới về con người trong quản trị.
Mặc dù bị nhiều chỉ trích về tính khoa học của các phương pháp nghiên cứu được áp dụng, nhưng công trình của Mayo tại nhà máy Hawthornes đã mở ra một kỷ nguyên mới trong quản trị học, và từ đấy phát triển thành “Phong trào quan hệ con người” đối địch lại với “Phong trào khoa học”. Với sự nhấn mạnh đến mối quan hệ con người trong quản trị, các nhà quản trị phải tìm cách gia tăng thỏa mãn tâm lý và tinh thần của nhân viên.
4- Donglas Mc. Gregor (1909 – 1964).
Phát triển các kết quả nghiên cứu của Mayo, Mc. Gregor đã cho rằng các nhà quản trị trước đây đã tiến hành các cách thức quản trị trên những giả thuyết sai lầm về tác phong con người. Những giả thuyết đó cho rằng, phần đông mọi người không thích làm việc, thích được chỉ huy hơn là tự mình phải gánh vác trách nhiệm, và hầu hết mọi người đều chỉ làm tốt công việc vì quyền lợi vật chất. Chính vì những giả thuyết sai lầm đó mà các nhà quản trị đã xây dựng bộ máy tổ chức với quyền hành tập trung, đặt ra nhiều nguyên tắc thủ tục, đồng thời với một hệ thống kiểm tra và giám sát chặt chẽ. Mc. Gregor đã đặt tên cho những giả thuyết này là thuyết X.
Và, ông đề nghị một loạt giả thuyết khác, gọi là thuyết Y, sau này trở thành lý thuyết của Ông. Ngược lại với thuyết X, thuyết Y cho rằng công nhân sẽ thích thú với công việc nếu có được những điều kiện thuận lợi và họ có thể đóng góp nhiều hơn cho tổ chức. Từ đó, Mc. Gregor đề nghị các nhà quản trị nên quan tâm đến sự phối hợp hoạt động hơn là chú trọng đến các cơ chế kiểm tra không cần thiết trong tổ chức.
Thuyết Y của Mc. Gregor làm phong phú thêm cho lý thuyết quản trị. Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định, mà sau này tác giả lý thuyết Z, Willam Ouchi đã kịch liệt phê phán.
5- Chris Argyris (1923).
Đồng quan điểm với Mc. Gregor, Chris Argyris đã đưa ra những ý kiến bác bỏ các ý kiến về sự động viên và sự thỏa mãn của công nhân của các lý thuyết Cổ điển. Ông cho rằng, sự nhấn mạnh thái quá việc kiểm soát đối với nhân viên của các nhà quản trị sẽ đưa nhân viên đến thái độ thụ động, lệ thuộc, né tránh trách nhiệm. Trong trạng thái tâm lý bị ức chế, họ sẽ cảm thấy bất bình với nơi làm việc, sẽ có những tác phong tiêu cực đối với việc hoàn thành mục tiêu chung.
Chris Argyris cho rằng, bản chất con người luôn luôn muốn là người trưởng thành, muốn độc lập, sự phong phú trong hành động, sự đa dạng trong các mối quan hệ, và khả năng tự làm chủ.
Từ những phân tích trên, Ông đề nghị các nhà quản trị phải tạo điều kiện cho nhân viên tự thể hiện, xứng đáng như những người trưởng thành, và điều đó sẽ có lợi cho tổ chức.
6- Tóm tắt các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Tâm lý xã hội.
a- Tóm tắt.
Đồng quan điểm với trường phái Cổ điển, hiệu quả do năng suất lao động quyết định. Nhưng năng suất lao động lại do các yếu tố phi vật chất quyết định.
Các lý thuyết thuộc trường phái Tâm lý xã hội đã khắc phục được “con người thuần lý - kinh tế” của các lý thuyết thuộc trường phái Cổ điển. Họ xem con người với tư cách là những cá nhân có những mối quan hệ mật thiết trong một tổ chức. Sự tương tác giữa các cá nhân và tập thể trong mối quan hệ thân thiện, hợp tác sẽ làm tăng năng suất lao động. Hay nói cách khác, năng suất lao động tùy thuộc nhiều vào các yếu tố tâm lý-xã hội. Quan điểm này được thể hiện ở các nội dung sau:
- Các đơn vị kinh doanh là một hệ thống xã hội, bên cạnh tính kinh tế và kỹ thuật đã được nhận thấy, sự thỏa mãn về tinh thần có mối quan hệ chặt chẽ tới năng suất và kết quả lao động. Vì vậy, con người không chỉ có thể động viên bằng các yếu tố vật chất, mà còn các yếu tố tâm lý-xã hội như: tiến hành trắc nghiệm tâm lý khi tuyển dụng, khích lệ họ bằng cách thừa nhận các thành quả mà họ làm được, nhận biết các nhu cầu để thỏa mãn, xây dựng môi trường sống và hoạt động lành mạnh, mọi người yêu thương gắn bó, hợp tác nhau để hoàn thành công việc…
- Các nhóm và tổ chức phi chính thức trong một tổ chức có tác động nhiều đến tinh thần, thái độ và kết quả lao động của công nhân.
- Sự lãnh đạo của các nhà quản trị không chỉ đơn thuần dựa vào chức danh chính thức trong bộ máy tổ chức, mà còn phải biết dựa nhiều vào các yếu tố tâm lý - xã hội. Điều đó đòi hỏi ở tài năng của mỗi nhà quản trị, đặc biệt là kỹ năng quan hệ với con người.
b- Các đóng góp.
Với những luận điểm trên, các lý thuyết thuộc trường phái Tâm lý xã hội đã đóng góp to lớn vào sự nghiên cứu và thực hành quản trị:
- Nhận rõ sự ảnh hưởng của tác phong lãnh đạo của nhà quản trị.
- Vai trò của các tổ chức không chính thức đối với thái độ lao động và năng suất lao động.
- Sự ảnh hưởng của tập thể đối với thái độ cá nhân.
- Mối quan hệ giữa các đồng nghiệp, mối quan hệ nhân sự trong công việc.
- Giúp cho các nhà quản trị hiểu rõ hơn về sự động viên con người, quan tâm hơn đối với nhân viên, đối với việc sử dụng quyền hành và thông đạt trong tổ chức …
Nói về “chiến lược mới về tăng năng suất lao động” của Singapore cho 10 năm 2000 – 2010, tác giả Nguyễn văn Đường (theo The Straits Times), trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 14/03/2000 viết:
Chính phủ Singapore vừa soạn thảo một kế hoạch mới về tăng năng suất lao động cho 10 năm sắp tới, làm thay đổi thái độ làm việc của họ và xem nó như một phần của chiến lược vươn tới tương lai nhằm biến Singapore thành một trong mười quốc gia có năng suất đứng đầu thế giới về sản xuất và dịch vụ vào năm 2010.
Năm 1999, trong quyển niên giám cạnh tranh của thế giới (The World Competiveness Yearbook), năng suất dịch vụ Của Singapore được xếp hàng thứ 19 và năng suất công nghiệp đứng hàng thứ 20.
Theo kế hoạch cuộc đổi mới tăng năng suất này, công nhân Singapore sẽ được hướng dẫn cách tư duy để trở thành người lao động có đầu óc sáng tạo, thường xuyên tìm kiếm giải pháp thông minh để hoàn thành công việc của mình chứ không phải chỉ giải quyết những công việc đơn thuần trong công sở. Anh ta sẽ được khuyến khích sự sáng tạo của mình bằng cách cộng thêm giá trị cải tiến đó vào chức danh nghề nghiệp của mình, vì thế anh ta được đánh giá tay nghề cao hơn những người khác.
Người quản lý sẽ không đơn thuần chỉ đưa ra lời hướng dẫn mà phải cùng làm việc với cộng sự để cắt giảm chi phí và tăng năng suất. Ông ta sẽ vận dụng tính năng động của mình để tìm kiếm thị trường mới và đầu tư cho tương lai.
Ủy Ban Chất lượng và năng suất Singapore (SPSB) cho rằng: để làm được điều này chỉ một cuộc cách mạng làm thay đổi quan điểm trong nếp nghĩ của mọi người đối với công việc và năng suất.
Ví dụ, trong quá khứ, người ta đánh giá hiệu quả bằng việc sản xuất ra nhiều hàng hóa hoặc tạo ra các mặt hàng tốt hơn với cùng một lượng đầu vào (sức lao động và thiết bị máy móc). Ngày nay, nó được đánh giá sự cải tiến và sáng tạo các loại sản phẩm mới. Đây cũng là tiêu chuẩn giúp cho công ty Creative Technology, một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cải tiến các sản phẩm máy tính trở thành một công ty nổi tiếng có kỹ thuật cao.
Trong cuộc họp báo ngày 6/12/1999, ông Lee Suan Hiang, giám đốc hành chánh quản trị của SPSB phát biểu rằng: “Kế hoạch này nhằm hướng cho công nhân chú trọng vào sự cải tiến bằng giá trị sáng tạo hơn là chỉ đơn thuần cải tiến chất lượng và giải quyết khó khăn”.
Một chương trình giáo dục quốc gia được triển khai nhằm làm thay đổi cách tư duy. Các chi tiết môn học sẽ được giới thiệu sau này.
Từ năm 1982, vòng hoán đổi chất lượng được quảng cáo như một phần của cuộc vận động về tăng năng suất. Từ việc giải quyết khó khăn để cải tiến thặng dư được chuyển sang những ý tưởng khám phá quan trọng hơn.
Việc khuyến khích đào tạo sẽ được phổ biến rộng rãi và không bó hẹp trong việc học hỏi những kỹ năng căn bản đơn thuần và chỉ tập trung vào những công ty nhỏ cá thể. Thay vào đó, Chính phủ sẽ hỗ trợ tài chính nhằm khuyến khích người lao động học tập những kỹ năng tiên tiến cao hơn. Họ sẽ thành lập nguồn quỹ mới để giúp cho các công ty, các doanh nghiệp bắt tay vào việc cải tiến năng suất công nghiệp ở diện rộng một cách đại trà.
Cách đây 18 năm, từ lúc phong trào nâng cao năng suất quốc gia ra đời, những thành tựu năng suất đã đóng góp hơn phân nửa trong số 7,2% mức tăng trưởng GDP trung bình hàng năm của Singapore…”.
Như vậy, rõ ràng các lý thuyết về Tác phong con người, không những có ý nghĩa nhiều mặt về: nhận thức, lý luận mà nó còn được vận dụng khá phổ biến không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai xa. Tuy nhiên, cũng như các lý thuyết khác, các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Tác phong cũng không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định.
c- Những hạn chế.
Hiện cũng có nhiều ý kiến chỉ trích các lý thuyết thuộc trường phái Tâm lý xã hội:
- Quá chú ý đến yếu tố xã hội của con người khiến trở thành thiên lệch. Khái niệm “con người xã hội” chỉ có thể bổ sung cho khái niệm “con người thuần lý – kinh tế” chứ không thể thay thế. Không phải bất cứ lúc nào, đối với bất cứ con người nào khi được thỏa mãn đều cho năng suất lao động cao. Bằng chứng, trong thập niên 50 ở Mỹ và nhiều nước châu Âu, nhiều nỗ lực nhằm cải thiện điều kiện làm việc và gia tăng sự thỏa mãn tinh thần của công nhân đã không đem lại sự gia tăng năng suất như mong đợi. Và, nó chỉ là một trong nhiều yếu tố ảnh hưởng đến năng suất. Các yếu tố khác như: lương bổng, quyền lợi vật chất, cơ cấu tổ chức, sự rõ ràng trong công việc, sự kiểm tra giám sát … cũng có vai trò to lớn đối với năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
- Ở một khía cạnh khác, một lần nữa Trường phái Tâm lý xã hội cũng giẫm đạp lên con đường mòn của trường phái Cổ điển, xem con người trong tổ chức với tư cách là phần tử của hệ thống (xí nghiệp, công ty) khép kín (closed system). Bỏ qua mọi sự tác động các yếu tố bên ngoài như: chính trị, kinh tế, xã hội, … Với hệ thống mở, quan hệ con người trong tổ chức không còn hoàn toàn phụ thuộc vào tương quan nội bộ giữa các thành phần trong tổ chức, mà còn chịu sự chi phối của các yếu tố bên ngoài, các yếu tố này thường nằm ngoài khả năng kiểm soát của nhà quản trị. Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, các yếu tố bên ngoài tổ chức là thách thức to lớn đối với mọi doanh nghiệp, nhất là những nước đang phát triển như ở nước ta hiện nay. | |
| | | dungkieuvan Admin
Tổng số bài gửi : 104 Đến từ : hồ chí minh
| Tiêu đề: Re: CHƯƠNG II CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ 9th June 2010, 7:20 pm | |
| III- LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ THUỘC TRƯỜNG PHÁI ĐỊNH LƯỢNG. 1- Quá trình hình thành và những tư tưởng cơ bản của trường phái Định lượng. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã đặt ra nhiều vấn đề mới cho quản trị, bởi một sự sai sót của người chỉ huy dù nhỏ đến đâu thì cũng dẫn tới sự thiệt hại to lớn về người và vật chất, vì lúc bấy giờ các bên tham chiến đã có nhiều vũ khí hiện đại. Khi nước Anh cơ hồ không chịu nổi các cuộc tấn công của Đức, người Anh thành lập nhóm nghiên cứu, trong đó bao gồm các nhà khoa học hàng đầu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm tập hợp trí tuệ để tìm ra phương án tối ưu chống lại kẻ thù của mình. Nhóm nghiên cứu này đã đưa ra những mô hình toán nhằm đơn giản hóa tình tiết tấn công và phản công, qua đó giúp các nhà chỉ huy quân sự giảm bớt các sai lầm trong các quyết định của mình. Những mô hình đó dựa trên các phương trình toán học và đã giúp cho Anh chống lại được các cuộc tấn công của Đức. Sau chiến tranh kết thúc, kỹ thuật nghiên cứu “tác vụ” được giới công nghiệp Mỹ quan tâm. Một vài cựu chiến binh Mỹ trong thế chiến thứ hai quen thuộc với kỹ thuật này tham gia vào quản trị công ty xe hơi Ford, và áp dụng các kỹ thuật tính toán vào làm các quyết định quản trị. Và, sau đó từ thập niên 50 thế kỷ XX, kỹ thuật định lượng được áp dụng nhiều vào việc nghiên cứu và tạo điều kiện để nâng cao tính chính xác của các quyết định quản trị.Lý thuyết định lượng về quản trị được xây dựng trên nền tảng nhận thức cơ bản: “Quản trị là quyết định”, và muốn quản trị có hiệu quả thì các quyết định phải đúng, để có quyết định đúng phải xem xét sự vật – hiện tượng trong mối quan hệ quan hệ hữu cơ của hệ thống, sử dụng các kỹ thuật định lượng, được hỗ trợ đắc lực bởi sự phát triển nhanh chóng ngành công nghiệp điện toán, giúp giải quyết nhiều mô hình toán phức tạp với tốc độ cao chưa từng thấy.Lý thuyết này được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau: Lý thuyết khoa học quản trị (Management Science), Lý thuyết hệ thống (System Theory), Nghiên cứu tác vụ hay Vận trù học (Operations Research), và phổ biến nhất vẫn là Lý thuyết định lượng về quản trị (Quantitative Management Theory), có thể tóm tắt bằng những nội dung chủ yếu như sau: 2- Nội dung của lý thuyết. - Nhấn mạnh đến phương pháp khoa học trong việc giải quyết các vấn đề quản trị.- Áp dụng phương pháp tiếp cận hệ thống để giải quyết vấn đề.- Sử dụng các mô hình toán học.- Định lượng hóa các yếu tố có liên quan, và áp dụng các phương pháp toán học và thống kê.- Quan tâm đến các yếu tố kinh tế kỹ thuật hơn là các yếu tố tâm lý-xã hội.- Đi tìm các quyết định tối ưu trong hệ thống khép kín.- Sử dụng rộng rãi công cụ máy tính vào quản trị, ngày nay nó đã trở thành cao trào. 3- Tóm tắt lý thuyết quản trị thuộc trường phái định lượng. a- Tóm tắt. Lý thuyết quản trị thuộc trường phái định lượng cũng lấy hiệu quả quản trị làm mục tiêu, nhưng con đường dẫn tới hiệu quả lại do các quyết định quản trị đúng, chính vì sự nhận thức như vậy mà họ chủ trương sử dụng các thành tựu khoa học và các công cụ định lượng nhằm lượng hóa các sự vật và hiện tượng trong mối quan hệ của hệ thống, giúp cho các nhà quản trị có những cơ sở, căn cứ xác thực để đề ra các quyết định quản trị đúng. b- Những đóng góp. Lý thuyết quản trị thuộc trường phái định lượng có thể được xem là sự triển khai các quan điểm của Lý thuyết quản trị khoa học trước đây. Cũng giống như Taylor, các nhà quản trị thuộc Trường phái định lượng nhấn mạnh đến tinh thần khoa học khi phân tích các vấn đề quản trị và chủ trương sử dụng các phương pháp tính toán để giải quyết vấn đề. Lý thuyết quản trị thuộc trường phái định lượng được các nhà thực hành quản trị vận dụng rộng rãi trong quản trị các tổ chức từ thập niên 50 thế kỷ XX đến nay, các kỹ thuật định lượng đã giải quyết nhiều vấn đề quản trị trong các cơ quan chính quyền và trong các cơ sở kinh doanh như làm ngân sách tài chính, quản trị hiện kim, chương trình hóa sản xuất, xây dựng chiến lược, bố trí và sử dụng tài nguyên, quản trị bán hàng, quản trị hàng tồn kho … c- Những hạn chế. Tuy nhiên, Lý thuyết quản trị thuộc trường phái định lượng cũng không tránh khỏi một số hạn chế:- Chưa giải quyết được nhiều khía cạnh về con người trong quản trị.- Lý thuyết này đòi hỏi ở trình độ kỹ thuật cao. Do đó, nhiều nhà quản trị cho rằng nó khó thực hiện, vì trong thực tế chỉ có các chuyên gia được đào tạo kỹ trong các lĩnh vực chuyên môn kỹ thuật cụ thể (kỹ thuật toán, máy tính, thống kê, …) mới có thể sử dụng các kỹ thuật đó để làm tham mưu cho các nhà lãnh đạo; khi có nhiều ý kiến khác nhau phải lựa chọn thì nhà quản trị không đủ kiến thức chuyên môn để kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn của vấn đề để đi đến quyết định được.- Mặt khác, lý thuyết này khó có thể vận dụng vào việc thực hiện các chức năng tổ chức, quản trị nhân sự, lãnh đạo. Do đó, tính phổ biến của lý thuyết chưa cao. IV- LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ THUỘC TRƯỜNG PHÁI HIỆN ĐẠI. Những nhà quản trị thuộc Trường phái hiện đại đã cho ra đời nhiều tác phẩm, lấy nhiều tên khác nhau như: Những vấn đề cốt yếu của quản lý – Harold Koontz; Quản trị học căn bản – James H. Donnelly; Quản trị học hoặc cùng tên tương tự của các nhà quản trị Việt Nam.Nhìn chung các nhà quản trị thuộc Trường phái hiện đại cố gắng phát triển lý thuyết quản trị phù hợp hơn với thời kỳ mới, nhưng có sự kế thừa chọn lọc các lý thuyết quản trị thuộc các trường phái trước đây.Xu hướng chung của các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Hiện đại là quản trị theo quá trình và Quản trị theo hệ thống. Trong đó, Những vấn đề cốt yếu của quản lý – Harold Koontz hay Quản trị học căn bản của James H.Donnelly… là một ví dụ điển hình củatrường phái này.1- Nội dung lý thuyết quá trình (PROCESS). v Xét ở góc độ quản trị tổ chức. Quản trị là quá trình thực hiện các chức năng. Theo đó:- Một tổ chức thuộc lĩnh vực (ngành nghề) nào, với qui mô lớn hay nhỏ, quản trị tổ chức là một quá trình diễn ra các họat động: Họach định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra. - Muốn quản trị có hiệu quả là làm cho quá trình đó có hiệu quả. v Xét ở góc độ quản trị công việc: “Quá trình” là chuỗi công việc nối tiếp nhau, kết hợp nhân lực, máy móc-thiết bị, công nghệ, nguyên liệu … thành các sản phẩm/dịch vụ có giá trị gia tăng. Như vậy: - Mỗi công việc nào cũng diễn ra như một quá trình, từ khởi đầu cho đến kết thúc.- Để quản trị có hiệu quả công việc ấy cần phải được quản trị từ công việc khởi đầu cho đến kết thúc trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. v Xét ở góc độ quản trị các họat động: “Quá trình” là một dãy các họat động khác nhau, có liên hệ chặt chẽ với nhau tạo ra giá trị cho “đối tượng phục vụ” hay “Quá trình” là một tập hợp những họat động có tổ chức được xác định để tạo ra giá trị gia tăng. Theo đó: - Họat nào cũng đều diễn ra như một quá trình, từ họat động khởi đầu cho đến kết thúc.- Để quản trị có hiệu quả các họat động cần phải được quản trị từ họat động khởi đầu cho đến kết thúc trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. v Xét ở góc độ của quá trình sản xuất kinh doanh. “Quá trình” là một tập hợp những nguồn lực và những họat động hỗ tương để biến những yếu tố đầu vào thành các sản phẩm/dịch vụ thỏa mãn những tiêu chuẩn định trước. Do đó, thành phần cơ bản của quá trình:- Đầu vào, bao gồm những sản phẩm/dịch vụ thỏa mãn các tiêu chuẩn đầu vào của quá trình.- Quá trình biến đổi, là tập hợp các các họat động sử dụng nguồn lực nhằm tác động vào các yếu tố đầu vào để “biến” các yếu tố đó thay đổi.- Đầu ra, là các sản phẩm/dịch vụ phục vụ đối tượng theo những tiêu chuẩn đã xác định trước như: độ dài/ngắn, dày/mỏng, nặng/nhẹ, bền/chắc, mặn/ngọt, thơm/mát… 2- Nội dung lý thuyết hệ thống. “Hệ thống là một tập hợp hoặc một bộ phận các sự vật có liên hệ hoặc phụ thuộc lẫn nhau để hình thành nên một tổng thể hòan chỉnh” Trích: “Những vấn đề cốt yếu của quản lý – H. Koontz”. Theo đó: - Hệ thống là một tập hợp của nhiều “bộ phận” hợp thành. Một cỗ máy, một con người, các khái niệm-các nguyên tắc-các phương pháp quản trị là một hệ thống.- Các “bộ phận” đó có thể có sự liên hệ hay là sự phụ thuộc lẫn nhau, không có sự tồn tại của bộ phận này thì không có bộ phận kia.- Nhờ có sự liên hệ hay phụ thuộc giữa các bộ phận với nhau tạo thành sự kết nối giữa chúng trong một tổng thể thống nhất về hình thức và nội dung sự vật. Do đó, quản trị phải tiếp cận theo hệ thống; duy trì, củng cố các mối quan hệ ấy trong hệ thống. V- TÓM TẮT CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ CỦA CÁC TRƯỜNG PHÁI QUẢN TRỊ. 1- Về mục tiêu của các lý thuyết. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là mục tiêu cuối cùng của các lý thuyết quản trị. Tuy nhiên, mỗi lý thuyết có một cách tiếp cận vấn đề (cách thức đặt vấn đề) và chỉ ra con đường đi đến mục tiêu không giống nhau. 2- Con đường đạt đến mục tiêu. - Các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Cổ điển, trường phái Tâm lý xã hội và trường phái hiện đại cho rằng năng suất lao động quyết định đến hiệu quả.- Trường phái Định lượng về quản trị lại cho rằng sự đúng đắn của các quyết định quản trị mới là chìa khóa của hiệu quả. 3- Phương pháp tiến hành. - Để tăng năng suất lao động, lý thuyết Cổ điển về quản trị cho rằng, cần phải tổ chức lao động khoa học, tạo điều kiện làm việc thuận lợi, khuyến khích bằng lợi ích vật chất và tăng cường kiểm tra kiểm soát chặt che (tức đề cao những yếu tố vật chất).- Các lý thuyết thuộc trường phái Tâm lý xã hội cho rằng, các yếu tố phi vật chất quyết định đến năng suất lao động. Do đó quá trình cần phải tác động phù hợp với tâm lý và giải quyết tốt các mối quan hệ xã hội của con người.- Trường phái Định lượng về quản trị cho rằng, sự đúng đắn của các quyết định quản trị mới là khâu quyết định đến hiệu qua. Để cho các quyết định quản trị đúng cần phải tiến hành định lượng, lượng hóa những yếu tố có liên quan, giúp cho nhà quản trị có cơ sở tin cậy đề ra các quyết định đúng.- Lý thuyết quản trị hiện đại tập hợp các phương pháp của các lý thuyết quản trị trước đó, phục vụ cho “quá trình” trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau trong hệ thống, đồng thời nâng cao trình độ của các phương pháp tác động dựa trên cơ sở tri thức và sự phát triển của khoa học kỹ thuật mới. | |
| | | anhyeuanhbinhminh_2907
Lớp : cl2 - k34 Chức vụ : Sinh Viên Tổng số bài gửi : 1 Đến từ : đồng tháp
| Tiêu đề: Re: CHƯƠNG II CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ 11th October 2012, 9:17 am | |
| | |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: CHƯƠNG II CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ | |
| |
| | | | CHƯƠNG II CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| Latest topics | » CHƯƠNG 3 HỒI QUY HAI BIẾN by kimanhbp 25th February 2014, 10:21 am
» [CYM] - Mời các bạn tham gia cuộc thi "Mindmap và tôi" by thanhbinh_90ns 22nd November 2012, 9:57 am
» CHƯƠNG II CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ by anhyeuanhbinhminh_2907 11th October 2012, 9:17 am
» CHƯƠNG V QUYẾT ĐỊNH QUẢN TRỊ by besu001 15th September 2012, 7:15 pm
» y kien ve van de dong dong trong cong tac quan tri by huyenkute85 28th July 2012, 5:55 pm
» Thành Đại Siêu come back by yeyeteen 11th February 2012, 10:46 am
» Ai có yêu cầu gì về tài liệu hay kinh nghiệm gì thì cứ hỏi nha, lấy tài liệu bên mục góc học tập by yeyeteen 31st January 2012, 1:27 pm
» Cà phê cho Tâm hồn (Coffee for the Soul) by vietanglcs 3rd January 2012, 12:09 am
» lam wen nha.......... by hoangtramy 12th October 2011, 6:37 pm
» Bài giảng và bài tập môn thị trường chứng khoán by thachquoc88 9th August 2011, 3:27 pm
|
|